Monday, July 14, 2025

Lê Huỳnh Tuấn Kiệt

Sinh viên Khóa 24, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG-HCM

Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra nhanh chóng, quan hệ lao động cũng ngày càng có nhiều sự thay đổi. Cuộc cách mạng số đã mang lại những lợi ích như nâng cao hiệu quả giao tiếp, tạo sự linh hoạt trong thời gian và địa điểm làm việc, đa dạng hóa các phương thức làm việc. Tuy nhiên, công nghệ số cũng đang làm mờ đi ranh giới giữa thời gian làm việc và đời sống cá nhân của người lao động. Điều này dẫn đến thực trạng thời gian nghỉ ngơi của người lao động bị xâm lấn bởi những công việc phát sinh ngoài giờ làm việc như các tin nhắn, điện thoại, email từ cả phía chủ doanh nghiệp, đối tác và khách hàng,... 


Chính vì vậy, quyền ngắt kết nối (Droit à la déconnexion) đang được quan tâm rộng rãi trên khắp các diễn đàn quốc tế. Quyền được ngắt kết nối đang có xu hướng trở thành một quyền cơ bản của con người. Mặc dù vẫn chưa có một định nghĩa chính thức cho Quyền được ngắt kết nối, nhưng có thể hiểu đây là quyền cho phép người lao động không tham gia vào các nhiệm vụ, hoạt động hay liên lạc liên quan đến công việc ngoài thời gian làm việc chính thức.


Quyền được ngắt kết nối được ra đời trên cơ sở bảo đảm quyền được nghỉ ngơi của người lao động, là một quyền cơ bản được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế. Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền ghi nhận: “Mọi người đều có quyền nghỉ ngơi và thư giãn” (Liên Hợp Quốc. 1948). Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa nêu rõ: “Các Quốc gia thành viên công nhận quyền của mọi người được có những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, bao gồm nghỉ ngơi, thời gian rảnh rỗi hợp lý và kỳ nghỉ định kỳ có trả lương cũng như được trả lương trong những ngày nghỉ lễ”(Liên Hợp Quốc. 1967). Hiến chương Xã hội Châu Âu cũng đã nhấn mạnh: “Tất cả người lao động có quyền được hưởng thời gian lao động hợp lý” (Hội đồng Châu Âu. 1961).


Quyền được nghỉ ngơi của người lao động, ngoài bảo đảm cho người lao động có thời gian để phục hồi sức khỏe, tái tạo sức lao động, còn là cơ sở để họ có thời gian tham gia vào các hoạt động văn hóa, xã hội, tạo điều kiện cho họ được phát triển toàn diện về cả mặt thể chất lẫn tinh thần. Quyền được nghỉ ngơi đặt trong bối cảnh của cuộc cách mạng số đang dần gắn chặt công việc và đời sống của người lao động vào công nghệ, đòi hỏi phải có một khung pháp lý về Quyền được ngắt kết nối để bảo vệ người lao động khỏi sự xâm lấn của công việc vào thời gian nghỉ ngơi từ những ảnh hưởng tiêu cực của công nghệ.


Từ năm 1984, khái niệm “technostress” lần đầu tiên được đề cập (Brod, C. 1984), mô tả trạng thái tâm lý căng thẳng của người lao động do phải thường xuyên giải quyết các công việc phát sinh thông qua điện thoại, email,... ngay cả khi đang không trong thời gian làm việc, dẫn đến tình trạng họ bị quá tải công việc và ảnh hưởng tiêu cực đến cả sức khỏe tâm lý và tinh thần. Đến những năm 1990, những cuộc thảo luận về tác động tiêu cực và nguy hiểm của công nghệ số đến người lao động ngày càng trở nên sôi nổi hơn trên các diễn đàn quốc tế. Đến năm 2002, vấn đề này đã được đề cập đến với tư cách là một khái niệm pháp lý, một quyền riêng tư mới trong thời đại số với bài nghiên cứu của Jean-Emmanuel Ray (Ray, J.-E. 2002), từ đây đã đặt dấu mốc khởi đầu cho sự xuất hiện của thuật ngữ pháp lý cho quyền được ngắt kết nối.


Trước khi khái niệm quyền được ngắt kết nối được đề cập đến trong công bố của Jean-Emmanuel Ray, nội dung của quyền này cũng đã từng được đề cập đến trong bản án của Tòa Phúc thẩm Pháp, Phòng Xã hội (Cour de cassation, Chambre sociale) vào năm 2001 với phán quyết: “Người lao động không có nghĩa vụ phải làm việc tại nhà hoặc cài đặt các ứng dụng, công cụ làm việc để phục vụ cho mục đích làm việc tại nhà” (Cour de cassation, chambre sociale. 2001). Tiếp sau đó, vào năm 2004, Tòa Phúc thẩm Pháp, Phòng Xã hội tiếp tục ra phán quyết: “Người lao động không có nghĩa vụ phải trả lời điện thoại ngoài giờ làm việc” (Cour de cassation, chambre sociale. 2004). Từ thực tế trên cho thấy, riêng tại Pháp, vấn đề về quyền được ngắt kết nối không chỉ dừng lại ở các phiên thảo luận, các công bố khoa học, mà những thành quả này đã được pháp luật của Pháp áp dụng trong thực tiễn. Từ đó, quyền được ngắt kết nối đã được pháp điển hóa và bổ sung vào Bộ Luật lao động (Code du travail) vào năm 2016 tại Điều L2242‑8 (hay còn gọi là Luật El Khomri) (Loi n° 2016‑1088 du 8 août 2016 relative au travail, à la modernisation du dialogue social et à la sécurisation des parcours professionnels. (2016). Legifrance). Quy định này yêu cầu doanh nghiệp có trên 50 nhân viên phải tiến hành đàm phán giữa người sử dụng lao động và người lao động để xây dựng một khung điều lệ, điều chỉnh việc sử dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý nhân viên và các công việc chuyên môn nhằm bảo đảm thời gian nghỉ ngơi và đời sống cá nhân cho người lao động. 


Để đảm bảo tính thực thi của pháp luật, ở Pháp đã có những chế tài cụ thể với những trường hợp vi phạm. Đơn cử, nếu vi phạm các quy định từ Điều R3124-1 đến R3124-16, chủ thể thực hiện vi phạm pháp luật có thể bị phạt mức tiền phạt hạng 4 và hạng 5, tức lên đến 4000 Euro cho mỗi người lao động bị xâm hại. Thậm chí, mức phạt này có thể tăng lên thêm 50% so với mức quy định nếu như chủ thể thực hiện vi phạm pháp luật tái phạm hành vi tương tự trong thời gian một năm kể từ ngày nhận bản án. Bản án số 17-13.029 của Tòa Phúc thẩm Pháp đã ra phán quyết “Phạt 60 868,51 Euro đối với công ty Rentokil vì hành vi bắt nhân viên phải luôn trực điện thoại để chờ xử lý tình huống”, theo đó khoản tiền này được bồi thường cho những nhân viên bị xâm hại quyền lợi theo công thức “Astreinte(khoảng thời gian làm việc ngoài giờ làm việc thực tế mà nhân viên được yêu cầu phải làm) (Cour de cassation, chambre sociale. 2018).


Pháp luật Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm của Pháp trong bước đầu hình thành và đưa quyền được ngắt kết nối vào Bộ luật lao động của Việt Nam vì: Thứ nhất, pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật Lao động Việt Nam nói riêng, chịu ảnh hưởng khá sâu sắc từ pháp luật Pháp. Đơn cử như cách định nghĩa về “Hợp đồng lao động” và cách điều chỉnh quan hệ lao động chủ yếu bằng luật thực định (Khác với điều chỉnh bằng án lệ của đa số các nước Common Law) và cơ chế thỏa ước lao động tập thể. Thứ hai, Pháp là quốc gia tiên phong trong việc ghi nhận quyền được ngắt kết nối trong Bộ Luật lao động Pháp và áp dụng quyền này vào thực tiễn. Chính vì thế những vấn đề đã được pháp luật Pháp tổng kết trong suốt quá trình thực nghiệm sẽ là những kinh nghiệm thực hành tốt cho pháp luật Việt Nam.


Nhưng bên cạnh đó, ta cần xét đến tính khả thi của việc áp dụng quyền được ngắt kết nối đặt trong nền kinh tế Việt Nam và văn hóa quản trị hiện nay. Đối với khu vực tư nhân, phần lớn các doanh nghiệp vẫn còn giữ lối quản trị lao động thông qua các nền tảng liên lạc cơ bản như Gmail, Zalo hoặc số điện thoại. Chỉ có khoảng 36,1% các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam ứng dụng phần mềm quản lý nhân sự công nghệ cao (VietnamWork) so với con số 75% tại Pháp (Parlons RH). Từ đó dẫn đến thực trạng, các số liệu về thời gian lao động thực tế và tiến độ hoàn thành công việc của người lao động không được phản ánh chính xác, dẫn đến các cuộc gọi, liên lạc ngoài giờ diễn ra thường xuyên, thiếu kiểm soát. Đối với khu vực công, doanh nghiệp nhà nước vẫn còn mang nặng “văn hóa nghĩa tình”, tạo nên một môi trường thiên về sự đồng lòng. Mọi quyết định được đưa ra cần phải có sự đồng thuận cao, khiến các doanh nghiệp nhà nước dễ rơi vào tình trạng chậm thích ứng với những tác động của chuyển đổi số. Hơn nữa, văn hóa nghĩa tình song song cùng văn hóa quản trị đề cao thứ bậc sẽ khiến cho sự đồng thuận nói trên chỉ mang tính chất một chiều từ cao đến thấp, từ đó các yêu sách và tiếng nói của nhân viên, người lao động chưa được đặt làm trung tâm. Vì những lý do đó, việc áp dụng quyền ngắt kết nối vào hệ thống pháp luật Việt Nam cần phải đảm bảo đánh giá tác động và áp dụng có lộ trình.


Song, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam có thể làm gia tăng nguy cơ xâm hại đến quyền con người. Vấn đề về quyền ngắt kết nối ngày càng được các quốc gia quan tâm, trong đó có Việt Nam. Do đó Việt Nam cần phải từng bước đưa quyền được ngắt kết nối vào pháp luật lao động Việt Nam nhằm thúc đẩy tạo ra một môi trường lao động đảm bảo quyền con người và bền vững./.




Tài liệu tham khảo:

[1] United Nations. (1948). Universal Declaration of Human Rights (UDHR) (Article 24).


[2] United Nations. (1967). International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights (Article 7(d)).


[3] Council of Europe. (1961). European Social Charter (Article 2(1)).


[4] Brod, C. (1984) Technostress : the human cost of the computer revolution. Massachusetts: Addison‑Wesley.


[5] Ray, J.-E. (2002). Naissance et avis de décès du droit à la déconnexion, le droit à la vie privée du XXIᵉ siècle. Droit Social, (11).


[6] Cour de cassation, chambre sociale. (2001). Arrêt n° 99-42.727. Publié au Bulletin. https://www.legifrance.gouv.fr/juri/id/JURITEXT000007046319/


[7] Cour de cassation, chambre sociale. (2004). Arrêt n° 01-45.889. Juricaf. 

https://juricaf.org/arret/FRANCE-COURDECASSATION-20040217-0145889


[8] Loi n° 2016‑1088 du 8 août 2016 relative au travail, à la modernisation du dialogue social et à la sécurisation des parcours professionnels. (2016). Legifrance. https://www.legifrance.gouv.fr/jorf/id/JORFTEXT00003298321


[9] Cour de cassation, chambre sociale. (2018). Arrêt n° 17-13.029 [Inédit]. Legifrance. https://www.legifrance.gouv.fr/juri/id/JURITEXT000037384264/

2 comments:

  1. Bài viết rất hay và có tính tham khảo về quyền được ngắt kết nối, thảo luận trong không gian thị trường Việt Nam thì đây có thể là một giải pháp cho thực trạng áp lực công việc ngày càng tăng nhất là trong giai đoạn chuyển đổi số như hiện nay. Tuy nhiên để có thể áp dụng vào pháp luật Việt Nam thì cần phải thảo luận thêm về tính khả thi như sau:
    Thứ nhất, quyền được ngắt kết nối có thể xem quyền được nghỉ ngơi trong bối cảnh nhận được quá nhiều email ngoài giờ mà nếu không trả lời có thể ảnh hưởng tới công việc hay nặng hơn là có thể có hậu quả pháp lý tùy theo hợp đồng lao động. Tuy nhiên quyền được nghỉ ngơi đó chưa được cụ thể hóa qua bất kỳ văn bản nào trong pháp luật Việt Nam mà chỉ có thể được hiểu gián tiếp thông qua thời gian nghỉ ngơi được quy định trong Bộ luật lao động. Nên để có thể áp dụng vào hệ thống pháp luật Việt Nam thì trước hết phải cụ thể hóa quyền rộng hơn của quyền được ngắt kết nối là quyền được nghỉ ngơi trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
    Thứ hai, Việt Nam là nước đang phát triển, tình trạng người cần việc làm nhiều nên việc triển khai quyền được ngắt kết nối sẽ gặp khó khăn khi người lao động lo ngại bị mất công việc của mình khi từ chối giải quyết công việc ngoài giờ. Nhất là trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng căng thẳng như hiện nay.
    Thứ ba, văn hóa việc làm hiện nay đề cao việc người lao động cống hiến nhiều thời gian cho công việc như làm việc trong các ngành nghề dịch vụ khách hàng hay làm việc trong các công ty đa quốc nha nhiều múi giờ thì quyền được ngắt kết nối cũng sẽ bị hạn chế.

    Để có thể áp dụng quyền được ngắt kết nối tuy khó khăn, nhưng nếu thực hiện được thì có thể tăng năng suất lao động, hiệu quả sản xuất cũng như giải quyết phần nào áp lực trong công việc, nâng cao đời sống tinh thần của người dân, phù hợp với xu hướng phát triển bền vững tại Việt Nam hiện nay. Nên có vài ý kiến xây dựng thêm tác giả có thể tham khảo như sau:
    Thứ nhất, khai thác thêm về quyền được ngắt kết nối thông qua thỏa thuận tập thể như một bước chuyển trước khi áp dụng vào hệ thống pháp luật.
    Thứ hai, tuyên truyền văn hóa làm việc "xanh", đúng giờ giấc, nâng cao hiệu xuất, cải thiện sức khỏe tinh thần thông qua sách, báo, giáo dục hay truyền thông.
    Thứ ba, học hỏi thêm kinh nghiệm quốc tế từ các quốc gia như Đức hoặc Australia, nơi quyền ngắt kết nối được triển khai với các cơ chế linh hoạt, cân bằng giữa quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động.
    Thứ tư, nếu có thể áp dụng quyền được ngắt kết nối trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có thể áp dụng thử nghiệm trước ở quy mô nhỏ trước khi áp dụng trên hệ thống pháp luật Việt Nam mang tính quy phạm chung.

    Tóm lại, trong dài hạn, nếu áp dụng được quyền được ngắt kết nối thì đó sẽ là điểm sáng giúp cải thiện sức khỏe tinh thần cho người lao động tại Việt Nam. Xin cảm ơn tác giả đã gợi mở thêm cho quý độc giả về quyền được ngắt kết nối, một chủ đề rất hay và đáng được thảo luận.
    Tóm lại,

    ReplyDelete
    Replies
    1. Mến chào quý độc giả. Xin cảm ơn quý độc giả đã dành sự quan tâm cho bài viết của tôi cũng như đặt ra phản biện!
      Xét về tính khả thi, tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm của độc giả ở điểm thứ nhất và điểm thứ hai. Bên cạnh việc cụ thể hóa quy định về quyền được nghỉ ngơi, tôi xin bổ sung thêm vấn đề phổ cập và nâng cao nhận thức của người lao động về quy định hợp đồng, thời gian nghỉ ngơi, tăng ca, bảo hiểm,... là những quyền lợi gắn chặt với bản thân họ. Ngoài ra để giảm thiểu tình trạng người lao động vì lo sợ mất việc mà không dám đưa ra những yêu sách về quyền được nghỉ ngơi hay quyền được ngắt kết nối, cần phải có những cơ chế giám sát và chế tài nghiêm khắc đối với những trường hợp sa thải người lao động với lý do không chính đáng. Về vấn đề thứ ba, tôi cho rằng văn hóa phải đi đôi cùng với tiến bộ và nhân văn. Sức phát triển của doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung không nên chỉ dựa chủ yếu vào sức lao động của người lao động, mà còn phải ở tiến bộ công nghệ, khả năng quản trị và điều kiện làm việc. Những văn hóa quản trị không tốt nên cần được cải tạo và thay thế bằng văn hóa quản trị tiến bộ.
      Về các đề xuất gợi mở thêm hướng tiếp cận, xây dựng đề tài, tôi hoàn toàn đồng tình với ý kiến của độc giả và sẽ dành thời gian nghiên cứu thêm.
      Thân ái./ .

      Delete

ABOUT IICL-UEL BLOG

This is an academic blog of the Institute of International and Comparative Law, University of Economics and Law, Vietnam National University, Ho Chi Minh City. In our blog, we analyze contemporary legal issues such as international trade, digital technology, environmental protection, the green economy, and others.

RECENT POSTS